12/11/2011 00:07:02 AMÔ nhiễm môi trường - Mối nguy hiểm khôn lường
(Lượt xem: 746)Bộ Tài Nguyên và Môi trường vừa công bố Báo cáo môi trường quốc gia năm 2010 với cảnh báo là cùng với sự phát triển kinh tế, nước ta đang chịu nhiều hậu quả của biến đổi khí hậu và nạn ô nhiễm môi trường tại các khu đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, các lưu vực sông trên cả nước và nhiều vấn đề môi trường bức xúc khác. Các vấn đề ô nhiễm nêu trên đã trở thành những chủ đề nóng và luôn là mối quan tâm của
Báo động về ô nhiễm môi trường
Theo Bộ Tài Nguyên và Môi
trường, trong 5 năm qua hàng loạt vấn đề bức xúc liên quan đến ô nhiễm
môi trường đã được đề cập. Ảnh hưởng của ô nhiễm này rất lớn và liên
quan trực tiếp tới sức khỏe cộng đồng.
Số liệu quan trắc của Tổng
cục Môi trường cho biết, môi trường nước mặt ở hầu hết các đô thị và ở
nhiều lưu vực sông của nước ta đều bị ô nhiễm các chất hữu cơ và tình
trạng này không ngừng gia tăng. Tại hầu hết các sông, hồ, kênh, rạch
trong nội thành, nội thị, hàm lượng các chất ô nhiễm hữu cơ đều vượt
giới hạn tối đa cho phép từ 2 đến 6 lần. Điển hình là ô nhiễm tại 3 lưu
vực sông gồm sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy và sông Đồng Nai đã tới mức báo
động. Nghiêm trọng nhất là lưu vực sông Đồng Nai, nguồn nước thuộc đoạn
sông Sài Gòn - Đồng Nai hiện đang bị ô nhiễm nặng, chất lượng nước mặt
dùng cho sinh hoạt không đảm bảo. Tác nhân chủ yếu của tình trạng ô
nhiễm này chính là do có trên 9.000 cơ sở sản xuất công nghiệp nằm phân
tán, xen kẽ trong khu dân cư trên lưu vực sông Đồng Nai. Bình quân mỗi
ngày, lưu vực sông phải tiếp nhận khoảng 48.000m3 nước thải từ các cơ sở
sản xuất này.
Cả một khúc sông Thị Vải thuộc lưu vực sông Đồng Nai bị ô nhiễm, nổi bọt trắng xóa. Ảnh: Sỹ Tuyên - TTXVN
Cùng
với vấn đề ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi trường ở các đô thị đang
ngày càng gia tăng mức độ ô nhiễm như bụi tràn lan, úng ngập ngày càng
trầm trọng, chất thải rắn chưa được thu gom và xử lý triệt để. Theo số
liệu của Tổng cục Môi trường, hiện nay toàn quốc hầu như chưa có đô thị
nào được công nhận là đô thị xanh, sạch. Đặc biệt là ở TP Hà Nội và TP
Hồ Chí Minh, ô nhiễm bụi trong môi trường không khí được liệt vào loại
nhất nhì trên thế giới. Một nghiên cứu về ảnh hưởng của ô nhiễm không
khí đến sức khỏe cảnh sát giao thông làm việc tại một số nút giao lộ ở
TP.HCM cho thấy, nhiều người mắc đồng thời nhiều bệnh, thậm chí hơn 3
bệnh. Nổi bật trong cơ cấu bệnh của cảnh sát giao thông là bệnh về tai
mũi họng.
Vấn nạn ô nhiễm môi trường các cụm, khu công nghiệp
cũng được kể đến với những cảnh báo đáng lo ngại. Thống kê cho biết,
không kể trên 1.000 khu/cụm công nghiệp do UBND các tỉnh, thành phố
quyết định thành lập, tính đến hết năm 2009, toàn quốc đã có tới 249 khu
công nghiệp được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
nhưng chỉ có khoảng 50% các khu công nghiệp đang hoạt động là có hệ
thống xử lý nước thải tập trung. Hiện nay có khoảng 70% trong số hơn 1
triệu m3 nước thải/ngày từ các khu công nghiệp xả thẳng ra các nguồn
tiếp nhận không qua xử lý. Những khu vực chịu tác động nhiều nhất là các
lưu vực sông Cầu, Nhuệ - Đáy và Đồng Nai. Tình trạng ô nhiễm môi trường
của nhiều làng nghề diễn biến ngày càng trầm trọng hơn do chế biến
lương thực, chăn nuôi, giết mổ gia súc cộng với nước thải ở các làng
nghề tái chế, chế tác kim loại, dệt nhuộm còn chứa nhiều hóa chất độc
hại, axít và kim loại nặng…
Nguyên nhân chính
Ông Lê Văn Kiều, nguyên Chánh Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ
Ô
nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm do các sản phẩm thải bỏ nói riêng
đang là vấn đề được các nhà quản lý quan tâm và tìm cách xử lý. Theo
thống kê của Tổng cục Môi trường, trong năm 2010 có khoảng 40.000 tấn ắc
quy chì được thải bỏ trong nước và dự báo đến năm 2015, con số này sẽ
là gần 70.000 tấn. Các nước trong khu vực đều đã triển khai quy định về
trách nhiệm doanh nghiệp trong thu hồi sản phẩm thải bỏ. Việt Nam cũng
cần bắt kịp với xu hướng này, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế mạnh mẽ như hiện nay, việc quản lý không chỉ với doanh nghiệp
sản xuất trong nước, mà còn liên quan đến các tập đoàn đa quốc gia đang
đầu tư tại Việt Nam. Trong cấu thành giá sản phẩm, đặc biệt là các sản
phẩm của các tập đoàn lớn đã có tính đến 10% chi phí cho thực hiện trách
nhiệm môi trường. Vì vậy, triển khai quy định về sản phẩm thải bỏ là
rất cần thiết, nên áp dụng và có sửa đổi dần dựa theo nhu cầu thực tế.
TS Hoàng Dương Tùng, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Môi trường
Cả
nước có hơn 3.500 làng có nghề sản xuất, trong đó có hơn 1.200 làng
nghề đã được công nhận. Thực tiễn cho thấy, các hoạt động sản xuất tiểu
thủ công nghiệp trên địa bàn nông thôn, một mặt đã mang lại những giá
trị to lớn về kinh tế và xã hội, nhưng mặt khác đã và đang gây ra những
hậu quả nghiêm trọng cho môi trường, người dân địa phương hiện đang phải
sống ngập chìm trong bụi từ các hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng,
trong mùi hôi nồng nặc do phân hủy chất hữu cơ từ chất thải, hay ù tai
vì hàng trăm máy dệt đồng loạt hoạt động cả đêm lẫn ngày… Các tác nhân ô
nhiễm không những đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người lao động,
đến dân cư sống tại các làng nghề, đặc biệt là nhóm đối tượng nhạy cảm
là trẻ em và người già; mà còn lan truyền tới các khu vực lân cận. Do
vậy, Nhà nước cần đề ra các chính sách quản lý phù hợp và tìm ra các
giải pháp kiểm soát đồng bộ, kịp thời cũng như ngăn chặn, xử lý kịp
thời, khắc phục hậu quả của ô nhiễm môi trường nhằm bảo đảm mục tiêu
phát triển bền vững.
Theo các chuyên gia về môi trường, tình
trạng ô nhiễm môi trường nêu trên có nhiều nguyên nhân, song tập trung
vào một số các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Trước tiên là những
hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường
và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo thống kê của
Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi
trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động
kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản
xuất. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện,
thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn
bản mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến,
từ đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức,
các hoạt động kinh tế... trong việc bảo vệ môi trường.
Tiếp theo
là quyền hạn pháp lý của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực
lượng cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả
hoạt động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cơ sở pháp lý, chế tài xử phạt
đối với các loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về
môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo
dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm hại môi trường.
Cùng
với nó là việc các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm
đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lý,
thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Công tác
thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng đối với các
cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức, hiện tượng “phạt để
tồn tại” còn phổ biến. Công tác thẩm định và đánh giá tác động môi
trường đối với các dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được
coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành một cách hình thức, qua
loa đại khái cho đủ thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và phê duyệt
không cao.
Giải pháp mang tính lâu dài
Đề cập tới vấn đề
giải pháp tạo cho môi trường Việt Nam trong sạch ổn định và bền vững,
PGS. TS Trương Mạnh Tiến, nguyên Giám đốc Quỹ Bảo vệ môi trường cho
rằng, cần phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bởi nhân lực chính là
cái cốt lõi trong việc bảo vệ môi trường. Ngoài ra, hệ thống quan trắc
của Việt Nam quá kém và cần phải được hiện đại hóa trong tương lai. Bởi
khi hệ thống quan trắc được hoàn thiện, sẽ có những số liệu trung thực
nhất, nâng cao chất lượng nhân lực, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp
luật bảo vệ môi trường, tăng cường sự tham gia của cộng đồng...
Bộ
Tài Nguyên và Môi trường cũng cho rằng, để giảm thiểu ô nhiễm môi
trường, Nhà nước cần bổ sung một số quy định cụ thể như: Ban hành, sửa
đổi, bố sung các luật liên quan về môi trường, trước mắt là Luật Bảo vệ
môi trường; tăng mức chi sự nghiệp môi trường lên trên mức 2% tổng chi
ngân sách hàng năm nhằm đáp ứng các yêu cầu của công tác bảo vệ môi
trường trong tình hình mới; tăng cường giám sát việc thi hành các luật
liên quan trong công tác bảo vệ môi trường; ưu tiên giám sát các dự án
lớn của quốc gia…; tập trung chỉ đạo giải quyết các vấn đề bức xúc nhằm
ngăn chặn việc gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm tài nguyên thiên
nhiên và đa dạng sinh học, đảm bảo an ninh môi trường, coi đây là nhiệm
vụ bảo vệ môi trường trọng tâm trong 5 năm tới; tiếp tục hoàn thiện hệ
thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương
tới địa phương, đặc biệt là ở các cấp xã, phường, phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn giữa các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa
phương; các bộ, ngành địa phương cần tập trung nhân lực, vật lực và tài
lực để xây dựng, trình Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện các
chương trình, đề án quốc gia nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc về môi
trường thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành và địa phương.
(theo baomoi.com )